Tôi không thể quên bài học về Việt Nam. Bạn cũng nên như vậy.

“Chúng tôi không còn quan trọng bởi vì chúng tôi sinh ra ở Afghanistan… Không ai quan tâm đến chúng tôi. Chúng tôi sẽ chết dần trong quên lãng."

Dịch từ bài viết I Can’t Forget the Lessons of Vietnam. Neither Should You của tác giả Viet Thanh Nguyen đăng trên The New York Times.

Thường dân miền Nam Việt Nam leo tường Đại sứ quán Hoa Kỳ trong nỗ lực tuyệt vọng rời Sài Gòn bằng máy bay năm 1975. **Ảnh: Neal Ulevich/Associated Press**

Sài Gòn thất thủ khi tôi bốn tuổi nên tôi không nhớ gì về sự kiện đó. Tôi tự cho là mình may mắn vì có nhiều người Việt tuy sống sót sau cuộc chiến nhưng phải gánh chịu hậu quả nặng nề. Sự sụp đổ của chế độ miền Nam do Mỹ hậu thuẫn bắt đầu vào tháng 3 năm 1975 từ Ban Mê Thuột, Tây Nguyên quê hương tôi.

Trong vòng chưa đầy hai tháng, toàn bộ miền Nam Việt Nam đầu hàng Bắc Việt. Binh lính bỏ chạy trong cuộc rút lui hỗn loạn cùng với dân thường. Mẹ tôi, anh trai tôi và tôi cũng nằm trong số đó. Chúng tôi bỏ lại người chị nuôi của tôi. Sau khi đi bộ gần 200 cây số để thoát khỏi đoàn quân Bắc Việt đang tiến công, ba mẹ con tôi đến được thành phố biển Nha Trang, nơi chúng tôi tìm được một chiếc thuyền để đưa chúng tôi vào Sài Gòn, nơi cha tôi đang ở.

Chúng tôi đã may mắn nhưng nhiều người khác thì không. Anh tôi còn nhớ những người lính dù miền Nam đã chết treo trên cây. Tại Nha Trang, nhiều người khi cố trèo lên thuyền đã bị rơi xuống biển và chết. Tại Đà Nẵng, nhiều người lính tuyệt vọng nhồi mình vào khoang hành lý máy bay, những người lính bị bỏ lại thì ném lựu đạn và bắn vào máy bay. Hình ảnh về những người rơi xuống, về những người chạy trốn trong tuyệt vọng, giờ đây lại xuất hiện với chúng ta từ thủ đô Kabul của Afghanistan.

Quan chức Mỹ đấm một người ra khỏi máy bay chở quá tải người tị nạn với hy vọng chạy trốn khỏi Nha Trang tháng 04/1975. **Ảnh: Bettmann, Reuters**

Hai thập kỷ, hàng tỷ đô la và hàng chục nghìn người chết sau đó, giờ đây lực lượng Taliban đã quay trở lại Kabul, giành được quyền kiểm soát đất nước một cách nhanh chóng.

Sai lầm của Mỹ ở Afghanistan đã sớm được so sánh với cuộc chiến tranh Việt Nam: một cuộc chiến leo thang, một cuộc chiến sa lầy, không có hồi kết. Nỗ lực phủ nhận sự tương đồng giữa hai cuộc chiến của các nhà lãnh đạo nước Mỹ càng khiến cho sự tương đồng trở nên rõ ràng. Như sự thất bại của Sài Gòn trước kia, hay hậu quả bây giờ với hàng chục nghìn người Afghanistan là thảm hoạ có thể báo trước số phận sẽ ra sao với họ. Đó không phải là điều mà chính quyền Biden muốn nghe thấy. “Đây không phải là Sài Gòn,” Ngoại trưởng Antony Blinken nói vào cuối tuần qua.

Đúng vậy, Taliban không phải là Quân đội Nhân dân Việt Nam và cuộc di tản của Mỹ khỏi Sài Gòn, hỗn loạn như vậy, đã được lên kế hoạch tốt hơn so với cái kết Mỹ dành cho Kabul. Nhưng sự tương đồng của Sài Gòn là quan trọng vì tình trạng khẩn cấp và thảm họa con người cũng tương tự như vai trò của Hoa Kỳ và các quốc gia khác để định hình số phận của người Afghanistan.

Do đó, thật thất vọng khi nghe Tổng thống Biden bảo vệ chính sách Afghanistan của mình bằng cách tập trung vào hai lựa chọn - ở lại và chiến đấu hoặc rút lui - trong khi phủi trách nhiệm cho chính phủ và quân đội Afghanistan. Việc đổ lỗi cho người Afghanistan giúp che lấp lịch sử tính toán sai lầm của người Mỹ bắt đầu từ Tổng thống George W. Bush, và cho phép ông Biden coi việc di tản những người Afghanistan đồng minh chỉ là lựa chọn thứ yếu hơn là một ưu tiên.

Đối với những thường dân này, cuộc chiến vẫn chưa kết thúc và sẽ không kết thúc trong nhiều năm nữa. Tương lai của họ - và vai trò của ông Biden trong việc xác định liệu đó là sự tái định cư và khởi đầu mới hay là sự sợ hãi và đau khổ - là điều sẽ quyết định liệu Mỹ có thể tuyên bố rằng họ sẽ luôn đứng về phía các đồng minh của mình hay không.

Là một học giả về ký ức (scholar of memory) và một tiểu thuyết gia viết về chiến tranh Việt Nam, tôi thường nghĩ về năm 1975 và những hậu quả của nó. Tôi lớn lên trong một cộng đồng người Việt tị nạn được định hình sâu sắc bởi sự sụp đổ của Sài Gòn mà cộng đồng chúng tôi gọi là Tháng Tư Đen, sự kiện được kỷ niệm hàng năm. Vậy nên khi tôi đọc bài tường thuật này của một nhà báo ẩn danh người Afghanistan trên lãnh thổ Taliban mới chiếm được, nó cộng hưởng hoàn toàn với tất cả những câu chuyện tôi đã nghe từ những người tị nạn Việt Nam:

“Toàn bộ cuộc đời tôi đã bị xóa sổ chỉ trong vài ngày. Tôi rất sợ và không biết điều gì sẽ xảy ra với mình. Tôi có được về nhà nữa không? Tôi có được gặp lại bố mẹ tôi nữa không? Tôi sẽ đi đâu? Đường cao tốc bị phong tỏa cả hai hướng. Tôi sẽ sống sót như thế nào?”

Những câu hỏi của cô ấy đặc biệt gây ám ảnh khi hình ảnh những người Afghanistan cố gắng chạy trốn để giành lấy mạng sống, chen chúc trên sân bay Kabul, lấp đầy sóng phát thanh. Những câu hỏi của cô ấy có lẽ tương tự như những câu hỏi mà cha mẹ tôi và nhiều người Việt tị nạn khác đã tự hỏi chính họ.

Một lần nữa, chúng tôi lại gặp may mắn: Gia đình tôi đã cố chạy trốn bằng đường hàng không nhưng không thể đến được sân bay Sài Gòn. Chúng tôi đã thử đến Đại sứ quán Hoa Kỳ nhưng không thể vượt qua được đám đông khổng lồ. Cuối cùng, chúng tôi tìm thấy một chiếc sà lan tại bến tàu, rời Sài Gòn và cuối cùng cũng đến được Hoa Kỳ, nơi chúng tôi bắt đầu lại cuộc sống của mình. Chúng tôi chỉ là thường dân nhưng đó là câu chuyện về chiến tranh.

Người dân cố gắng trèo tường sân bay quốc tế Hamid Karzai để chạy trốn sau khi Taliban giành quyền kiểm soát Kabul. **Ảnh: EPA, Shutterstock**

Người Mỹ thích tưởng tượng những câu chuyện chiến tranh có những người lính, thủy thủ và phi công anh hùng của họ. Trong thực tế thì câu chuyện tị nạn cũng là câu chuyện chiến tranh. Tuy nhiên, bất chấp thái độ phản chiến ngày càng gia tăng trong nước, Hoa Kỳ vẫn khó từ bỏ thói quen tham chiến, một phần vì tổ hợp công nghiệp-quân sự được xây dựng cho chiến tranh. Và một phần vì ngay cả những câu chuyện phản chiến có quân đội vẫn tập trung vào vẻ đẹp quyến rũ của hỏa lực, khí tài, chủ nghĩa anh hùng và vẻ nam tính. Anthony Swofford, một cựu binh của Chiến dịch Bão táp sa mạc, nhớ lại trong cuốn hồi ký ‘Jarhead’ của mình cách anh ta và những người lính thủy quân lục chiến của mình đã trải qua cảm giác sung sướng như làm tình khi xem những cảnh chiến đấu trong bộ phim “Apocalypse Now”, kể cả những cảnh mô tả việc giết Lính Mỹ.

Không có quyền lực hay là vinh quang trong những câu chuyện về dân thường bị giết, bị thương, buộc phải chạy trốn hay mồ côi bởi chiến tranh. Đó chính là những trải nghiệm mà nhiều người dân thường Afghanistan hiện đang phải trải qua, chúng ta mới thực sự tìm thấy những câu chuyện chiến tranh. Chúng ta cứ được nghe rằng người Mỹ đang phải chịu đựng sự mệt mỏi vì chiến sự - nhưng chúng ta đọc được hay nhìn thấy bao nhiêu câu chuyện về binh lính Mỹ trong cuộc chiến so với những câu chuyện về người tị nạn bởi cuộc chiến mà Hoa Kỳ lãnh đạo? Những câu chuyện về nội chiến làm xáo trộn tư duy của chúng ta về việc (Hoa Kỳ) tiến hành chiến tranh thường xuyên như một đặc quyền không thể nghi ngờ của Mỹ.

Người Mỹ cũng thích nghĩ rằng chiến tranh kết thúc khi chúng được tuyên bố kết thúc. Nhưng hậu quả của chiến tranh thì vẫn tiếp diễn trong nhiều năm. Tại Việt Nam, “người Việt chiến thắng” đã giam cầm vô số binh lính, chính trị gia, linh mục, người bán dâm và nhiều người khác của Nam Việt Nam trong các trại cải tạo, nơi mà nhiều người chết vì bệnh tật, đói khát và làm việc quá sức. Một số người đã bị xử tử. Các bản án tù kéo dài từ nhiều tháng đến hơn một thập kỷ.

Nhiều người trong số những tù nhân đó có lẽ cảm thấy giống như nhà báo Afghanistan mô tả sự hoang mang của cô ấy khi bị biến thành người tị nạn và không còn khả năng tự vệ trước Taliban: “Tôi nhớ mình đã la hét và khóc lóc, phụ nữ và trẻ em xung quanh tôi chạy toán loạn. Cảm giác như tất cả chúng tôi đều bị mắc kẹt trong một chiếc thuyền và có một cơn bão lớn xung quanh chúng tôi.” Cô ấy đang nói một cách ẩn dụ, nhưng nhiều thập niên sau khi Sài Gòn thất thủ, có đến gần một triệu người Việt Nam đã bỏ chạy bằng đường biển. Hàng chục nghìn người đã bỏ mạng trong những nỗ lực tuyệt vọng như vậy. Những người thực sự may mắn đã đến được các trại tị nạn và sau đó đến các nước sở tại. Những người kém may mắn hơn đã phải ở lại các trại tị nạn đó trong nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ. Họ chỉ là một phần của số nạn nhân tiếp tục tăng trong nhiều năm sau khi chiến tranh chính thức kết thúc. Đây là những gì mà người dân Afghanistan sẽ phải đối mặt, những người làm việc cho Mỹ có khả năng phải chịu sự trừng phạt khủng khiếp, một điều chắc chắn khi Taliban làm chủ Kabul.

Hy vọng rằng khi chúng ta thấy những lời cầu cứu ngày càng tuyệt vọng của người Afghanistan vào cuối tuần qua cũng như so sánh với sự sụp đổ của Sài Gòn sẽ khiến chính quyền Biden cấp bách hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình và giúp người Afghanistan đồng minh thoát khỏi đất nước.

Tuy nhiên, sự nguy hiểm của phép loại suy với Sài Gòn là nó cũng có thể đơn giản cho phép người Mỹ xem thảm kịch ở Afghanistan giống như cách nhiều người đã coi sự kết thúc của chế độ miền Nam Việt Nam - như một cảnh tượng, một khoảnh khắc đặc biệt trong lịch sử.

Trên thực tế, sự thất thủ của Sài Gòn đã gây ra thêm nhiều năm sợ hãi và tuyệt vọng cho những kẻ bại trận. Với Afghanistan, ông Biden cam kết sẽ sơ tán một số lượng không xác định những người Afghanistan dễ bị tổn thương đến nơi an toàn. Và có lẽ để đáp lại quan điểm dây tuý chống người nhập cư, Hoa Kỳ cũng đang cố gắng tìm nơi định cư cho nhiều người Afghanistan tị nạn ở các quốc gia khác. Nhưng như vậy là chưa đủ. “Người dân Afghanistan không đáng bị đối xử như vậy,” tiểu thuyết gia Khaled Hosseini nói trên Twitter. “Hoa Kỳ phải có nghĩa vụ đạo đức. Tiếp nhận càng nhiều người Afghanistan tị nạn càng tốt.”

Quân nhân Hoa Kỳ chĩa súng vào người Afghanistan khi hàng nghìn người đổ vào sân bay Kabul trong nỗ lực chạy trốn khỏi Afghanistan. **Ảnh: Wakil Kohsar/Agence France-Presse — Getty Images**

Lịch sử đang diễn ra một lần nữa, như một bi kịch hay một trò hề. Những cuộc chiến tranh ở Việt Nam hay Afghanistan xảy ra do sự kiêu ngạo của người Mỹ, và trong cả hai trường hợp, người Mỹ hầu như chỉ tập trung vào chi phí chính trị của chiến tranh cho họ. Nhưng trong cả hai trường hợp đó, người Việt (người Lào, người Campuchia, người Hmong) và bây giờ là người Afghanistan, đã phải trả cái giá lớn hơn nhiều về nỗi đau mà con người gánh chịu. Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ đã nhận ra trách nhiệm đạo đức của mình và sơ tán khoảng 130.000 người Việt Nam, sau đó tiếp nhận thêm hàng trăm ngàn người nữa từ Việt Nam, Lào và Campuchia trong những thập kỷ tiếp theo. Đây là những gì phải xảy ra ngay lập tức, và bất cứ điều gì thiếu tầm nhìn về trách nhiệm hay lòng hào hiệp như vậy sẽ làm phức tạp thêm sự thất bại của Mỹ ở Afghanistan.

Joe Biden, một thượng nghị sĩ năm 1975, chắc chắn nhớ rằng đa số người Mỹ không muốn chấp nhận người tị nạn Đông Nam Á. Tuy nhiên, Quốc hội đã làm điều đúng đắn, và sự phát triển mạnh mẽ sau đó của các cộng đồng người Mỹ gốc Đông Nam Á trên khắp Hoa Kỳ đã cho thấy sự đúng đắn của quyết định mang tính đạo đức đó. Dù quan điểm chính trị trong thời điểm hai cuộc chiến sai lầm của Mỹ là khác nhau, nhưng đạo đức thì không. Hàng chục nghìn người Afghanistan đã tin tưởng vào lời hứa của Mỹ về việc mở ra tự do, dân chủ và một xã hội cởi mở, khoan dung. Giờ thì họ đang bị mắc kẹt. Đối với người Afghanistan, chiến tranh không kết thúc đơn giản chỉ bởi vì Hoa Kỳ chúng ta tuyên bố nó đã kết thúc.

Cơn ác mộng chưa kết thúc đối với người Afghanistan sau khi những người Mỹ cuối cùng rời đi. Nghĩa vụ của chúng ta trong việc giúp đỡ những người Afghanistan đang gặp nguy hiểm đến tính mạng còn kéo dài đến thời điểm hiện tại và cả những năm sắp tới. Hoa Kỳ hiện phải đi đầu trong việc sơ tán và chào đón hàng chục nghìn người Afghanistan đồng minh của mình. Nếu không thì những lời của một phụ nữ trẻ Afghanistan khác đang suy nghĩ về tương lai của đất nước mình sẽ thành sự thật một cách đau đớn:

Chúng tôi không còn quan trọng bởi vì chúng tôi sinh ra ở Afghanistan… Không ai quan tâm đến chúng tôi. Chúng tôi sẽ chết dần trong quên lãng.

Built with Hugo
Theme Stack designed by Jimmy